Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối hay nhất

Chiều tối là bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật độc đáo. Điều khác lạ là bài thơ được viết trong hoàn cảnh người bị giải đi trên đường, với gông cùm xiềng xích, nhưng không phải là một lời than vãn xót xa. Dưới đây là phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối hay nhất.
Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối hay nhất
Hồ Chí Minh, vị cha già đáng kính của dân tộc, người đã tìm ra con đường cho dân tộc ta trước ách nô lệ. Để làm được điều này, Tổ quốc đã phải hy sinh biết bao người con, đổ biết bao xương máu, bản thân Người cũng phải chịu biết bao gian khổ, tù đày. Nhưng tinh thần lạc quan luôn là niềm tin sắt đá, sáng ngời. Bài thơ “Chiều tối” trong tập thơ “Nhật ký trong tù” của Bác Hồ đã chứng minh điều đó. Bài thơ này được viết liên quan đến việc Bác Hồ chuyển từ nhà tù Tín Tài sang nhà lao Tiến Bào. Lời thơ giản dị, chất phác nhưng chứa đựng khát vọng mãnh liệt về sứ mệnh giải phóng dân tộc còn dang dở. Trong thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, hai câu thơ đầu là một cái nhìn xa xăm vô hạn của tác giả, là niềm khao khát tự do được bay như chim, trôi như mây. Chiều tối, Đoạn thơ thứ 31 của Nhật ký trong tù. Thơ là sự kết hợp nhẹ dịu giữa vẻ đẹp cổ điển và đương đại. Chính sự kết hợp tài năng này đã dẫn đến một sự nghiệp thành công. Vẻ đẹp cổ điển là vẻ đẹp kế thừa những tinh hoa của văn học trung đại cả về bố cục, thể thơ, thi liệu. Vẻ đẹp đương đại là một sáng tạo độc đáo của văn học đương đại. Sự kết hợp thì không khó, nhưng để tạo nên một sự độc đáo, tuyệt vời thì không dễ chút nào. Nhưng tài hoa Hồ Chí Minh, với một ngòi bút hay và một hồn thơ rất đỗi bình dị, đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và chất hiện đại trong bài thơ này. Nhưng đó còn là vẻ đẹp tĩnh lặng của thiên nhiên và khung cảnh núi non hùng vĩ trong cảnh chiều tà ở hai khổ thơ đầu.
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không.
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Bài thơ gợi nhớ bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu và bài thơ Mây Bay Trời Xanh (Thu Cuối) của Nguyễn Khuyến. Nhưng trong thơ Bác, không phải mây trắng ngàn năm gợi sự vĩnh cửu, cũng không phải mây bồng bềnh gợi hư vô, cũng không phải sự lười biếng thói quen, cũng không phải cái mang nỗi sợ bầu trời mơ hồ của con người. Đây là đám mây quen thuộc trên bầu trời, rất gợi nhớ đến những buổi chiều mùa thu cao, rộng, trong, thanh bình, yên ả, bao la và tĩnh lặng của núi rừng Quảng Tây. Với những đám mây này, không gian dường như vô tận và thời gian dường như đứng yên. Hình ảnh thiên nhiên của một bản làng miền núi vào buổi tối được thể hiện bằng hai nét rất gợi cảm. Một con chim (chim hỗn hợp) mệt mỏi bay vào rừng để tìm nơi trú ẩn. Một đám mây lẻ loi lẻ loi (Cổ Vân) lơ lửng giữa trời. Cảnh đẹp là thế nhưng lại quá đồng điệu với nhau nên hơi buồn. Chỉ hai dòng nhân vật ít tả nhưng nhiều gợi đã làm nổi lên cái hồn của cảnh vật. Tác giả đã sử dụng thể thơ cổ rất sáng tạo, sử dụng động tác từ bên này sang bên kia để vẽ các khuôn mặt, gợi ra một bầu trời bao la, rộng lớn, một không gian thật vắng lặng và hoang vắng. Mây cô đơn bồng bềnh giữa trời, người tù một mình giữa xứ người giữa trưa, nhưng cũng như mây lẻ loi lẻ loi, mây ít nhất cũng có tự do trên bầu trời, nhưng với người tù tôi không có tự do. Nhưng bạn phải hiểu rằng đám mây cô đơn này là linh hồn của một tù nhân lơ lửng trong không trung. Thậm chí, nhìn vào hiện trường, bạn có thể thấy thái độ vô tư của người dân. Bầu trời, tiếng chim, mây và những nét cọ tinh tế khác thể hiện cái hồn của cảnh chiều rừng. Căn phòng dường như đã được mở rộng và rất rộng rãi và rộng lớn. Ta có thể thấy nhà thơ đã sử dụng phương thức chuyển tải nội dung trữ tình bằng cách miêu tả cảnh ngụ ngôn nổi tiếng của thơ cổ. Qua hình ảnh “chiếc lông chim” và hình ảnh “đám mây” hình ảnh thiên nhiên hiện lên trong chiều tà mang vẻ đẹp thơ mộng, cổ điển. Sang hai câu cuối, ngỡ như cảnh vật ấy sẽ gợi lên những nỗi buồn nhân sinh, ám ảnh thân phận, thế nhưng bài thơ đã đem đến cho ta một cảm nhận hoàn toàn khác với hình ảnh con người lao động trong không gian xóm núi:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
Màu sắc cổ điển xuất hiện đầu tiên trong hình ảnh những chiếc lông chim. Trong văn học trung đại, hình ảnh chiếc lông chim là một đề tài thơ ca nổi tiếng. “Ngàn buổi sáng gió cuốn đàn chim bay” (Bà Huề Tấn Quang) hay “Chim bay về rừng” (Nguyễn Du). Tiếng chim chiều thường gợi hình, gợi quá khứ xa xăm. Tuy sử dụng thi liệu cổ nhưng màu sắc đương đại của hình tượng thơ thể hiện rất rõ. Trong thơ cổ, chim thường bay đi đâu không biết, không biết đi về đâu, gợi sự xa cách, chia tay. Cánh chim thường chỉ được mô tả dưới dạng các chuyển động bề ngoài. Trong thơ Bác, cánh chim không bay vô phương hướng mà bay đi với một mục tiêu: “vào rừng”. Sau một ngày vất vả kiếm ăn, chúng quay trở lại rừng tìm chỗ nghỉ ngơi. Không những thế người đọc còn cảm nhận được trạng thái nội tâm. Chú tôi đã mang những chiếc lông chim từ thế giới siêu hình đến thế giới thực tại. Nếu như ở hai động tác đầu, khung cảnh được thể hiện bằng những nét chấm phá, hơi ước lệ cổ điển thì ở đây hình ảnh người phụ nữ lao động được khắc họa cụ thể, sinh động như một bức tranh, một bức tranh tả thực. Hình ảnh về phương xa, cánh chim và mây xa (trong phối cảnh), hình ảnh cô gái xay ngô, hình ảnh con người (ở gần – trên) nổi bật lên làm trung tâm của bức tranh thiên nhiên. Bức tranh miêu tả khoảnh khắc đầu tiên của đêm trên sườn núi cho thấy Bác Hồ quên đi cảnh ngộ của người dân. Nó thể hiện sự quan tâm, yêu thương của Bác đối với những người lao động nghèo khổ, vất vả của họ được thể hiện qua giọng điệu nghiêm khắc của bài thơ. Khổ thơ ban đầu có nghĩa là “cô gái ở một ngôi làng miền núi xay ngũ cốc”. Đó là một tài khoản thực tế, đơn giản của cuộc sống hàng ngày. Từ bức tranh thiên nhiên đến bức tranh cuộc sống, từ cảnh trời mây chim muông đến cảnh con người và người lao động – đó là hướng vận động trong kết cấu của bài thơ. Ba chữ “ma bao túc” được điệp lại, đảo lại thành “bao túc ma hoàn” có giá trị thẩm mỹ đặc sắc. Nó thể hiện sự chuyển động liên tục nhẹ dịu của chiếc cối xay, thể hiện đức tính cần cù của cô gái miền núi, đồng thời tạo nên nhịp điệu khoan thai của bài thơ. Hình ảnh “bếp than rực hồng” (những đường gân hồng) gợi nhớ về một mái ấm hạnh phúc. Trên đường tha hương xa xứ, tâm hồn nhà thơ vẫn lưu luyến nhịp sống khắc nghiệt, ngọn lửa hồng khiến vợ ông ít nhiều cô đơn. Chữ “hồng” ở cuối bài thơ mà thi nhân xưa gọi là “Mắt thơ” soi sáng bức tranh làng quê trong chiều tối. Bức tranh “Chiều tối” được miêu tả và thể hiện trong trạng thái chuyển động, từ bức tường đến bức tranh, không gian, thời gian đến cảm xúc. Từ khung cảnh thiên nhiên bầu trời đến hình ảnh cuộc sống gia đình, từ ngày tàn đến bóng tối, từ nỗi buồn cô đơn đến niềm vui sum họp đầm ấm, từ bóng tối đến ánh sáng. Đó cũng là vẻ đẹp rất hiện đại của bài thơ này. “Chiều tối” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một sự pha trộn giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần đương đại. Đoạn thơ này đã đem đến cho người đọc một bức tranh thiên nhiên vô cùng sinh động và đẹp đẽ vào một buổi chiều ở vùng cao. Đồng thời thể hiện tâm hồn cao thượng của tác giả lạc quan yêu đời trong bất cứ hoàn cảnh nào. Bài thơ Chiều tối khép lại để lại cả một nỗi niềm bao la trong tâm hồn. Chỉ với những vần thơ đơn giản đã vẽ lên cả một bức tranh chiều tà với sự sống vẫn đang tuôn chảy cùng nhịp thời gian. Không chỉ là vẻ đẹp thiên nhiên núi rừng, vẻ đẹp của con người trước sự hòa hợp ấy, đồng thời đó cũng là tinh thần lạc quan, là khát vọng được tự do luôn nung nấu trở về quê hương để hoàn thành sứ mệnh cao cả. Một vẻ đẹp sáng ngời đến bình dị của Bác.
Cảm ơn quý bạn đọc đã theo dõi bài viết của Trường Cao Đẳng Kiên Giang. Chúc các bạn học tốt.