Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa hay nhất

Bếp lửa được coi là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Bằng Việt. Hãy cùng Trường Cao Đẳng Kiên Giang phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa hay nhất qua bài viết dưới đây.
I. Dàn ý phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ “Bếp lửa”:
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm (Bằng Việt và bài thơ Bếp lửa)
- Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ.
2. Thân bài:
- Hình ảnh Bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc, hồi tưởng về bà: Bếp lửa sương sớm là một chiếc bếp lửa của hiện thực đang được bà nhóm lên, còn bếp lửa ấp iu nồng đượm đó là tình yêu thương của bà dành cho cháu với đầy nỗi vất vả, tần tảo sớm hôm
- Những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà và tình bà cháu:
- Kỷ niệm năm lên 4 tuổi. Kỷ niệm về tám năm ròng kháng chiến
- Những suy nghĩ về cuộc đời bà và hình ảnh bếp lửa
- Suy ngẫm về cuộc đời bà
- Suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa: Bếp lửa kỳ lạ và thiêng liêng
- Nỗi nhớ của cháu về bà và bếp lửa
3. Kết bài:
- Ý nghĩa của hình ảnh bếp lửa trong bài thơ
- Giá trị hiện thực đã làm sâu sắc thêm tình cảm bà cháu thiêng liêng.
II. Phân tích hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa hay nhất:
Trong đời ai cũng có những kỷ niệm tuổi thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỷ niệm ấy thiêng liêng, thân thiết nhất, có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người trong suốt cuộc hành trình và trong bao la của cuộc đời. Tiếng gà gáy trưa hè, ‘dòng sông xanh’ với Tế Hanh, những ngày vén váy đi chợ Bình Lâm hái trái cây chùa. Trong ký ức của Bằng Việt, nỗi nhớ của người con xa quê được truyền tải một cách trọn vẹn qua hình ảnh bếp lửa hồng, là hồn cốt của cả bài thơ. Ông thuộc thế hệ các nhà thơ thành danh trong kháng chiến chống Mỹ. Năm 1963, khi đang du học ở Liên Xô, ông đã sáng tác bài thơ khi mới 19 tuổi. Bài thơ gợi những kỷ niệm xúc động về tình bà cháu, đồng thời thể hiện tình cảm yêu quý, kính trọng, biết ơn của người cháu đối với gia đình, quê hương, đất nước. Bài thơ “Bếp lửa” được viết năm 1963, khi tác giả đang học tập tại Liên Xô. Đây là thời điểm cả nước ta đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh bếp lửa ấm áp quen thuộc, gợi lại ký ức tuổi thơ của em bên bếp lửa. Toàn bộ bài thơ là lời của một người cháu xa quê vẫn nhớ bà về quê gửi gắm qua hình ảnh bếp lửa. Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa ấm áp, thân quen:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!
Dòng hồi tưởng được bắt nguồn từ một hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa. Điệp ngữ “Một bếp lửa” lặp lại hai lần đã trở thành điệp khúc của đoạn thơ và cũng là điệp khúc mở đầu nỗi nhớ. Bếp lửa “chờn vờn sương sớm” – gợi tả một hình ảnh bếp lửa có thật được cảm nhận bằng thị giác ẩn hiện trong sương sớm. “chờn vờn” là một từ láy tượng hình, gợi tả hình ảnh bếp lửa đó khi to, khi nhỏ, bập bùng ẩn hiện trong sương buổi sớm. Tác giả đã rất khéo léo khi sử dụng từ láy “ấp iu” – là sự kết hợp sáng tạo và biến thể của hai từ “ấp ủ” và “nâng niu” để gợi bàn tay dịu dàng, kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa. Hình ảnh bếp lửa rất tự nhiên đã đánh thức dòng hồi tưởng của cháu về bà – người nhóm lửa mỗi sớm mai – một hình ảnh trong bài thơ lúc nào cũng chập chờn, lay động “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. “Nắng mưa” là hình ảnh ẩn dụ cho những gian khó, nhọc nhằn, vất vả. Trong lòng đứa cháu đi xa trào dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt, thương người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh “biết mấy nắng mưa”, thương cuộc đời vất vả sớm hôm của bà chữ “thương” đi với “bà” là 2 thanh dấu bằng đi liền nhau tạo ra âm vang như ngân dài xao xuyến, như nỗi nhớ trải dài của người cháu dành cho bà.
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Chính “mùi khói” đã xua đi mùi chết chóc từ mọi ngóc ngách. Cũng chính mùi khói ấy đã bao trùm, níu kéo tâm hồn đứa trẻ. Dù năm tháng có trôi đi, ký ức ấy vẫn khắc ghi trong tâm trí đứa cháu. Hình ảnh cháy nhà, cháy tình ông bà lại khơi dậy trong tâm trí nhà thơ một liên tưởng khác, một kỷ niệm khác của tuổi thơ. Đó là tiếng hót líu lo của những chú chim. Tiếng tu hú như lúa chín nhanh, bác nông dân vội xua đói, và cũng có vẻ là tiếng canh của đứa cháu nói: “Bà ơi, đến lúc nói chuyện với cháu rồi cháu biết!”. Từ láy làm tăng thêm âm điệu thơ và tạo cho người đọc cảm giác tiếng ve như đang vang vọng xa xăm trong tiềm thức của tác giả. Tiếng “tu hú” trong giấc mơ, đôi khi vang vọng cả cánh đồng đã xa trong tâm trí những đứa cháu xa xứ.
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Tám năm qua, đất nước có chiến tranh, hai người phải bỏ làng đi lánh nạn, cha mẹ phải đi công tác nên đứa cháu ngoại phải ở với bà, nhưng với tôi, dường như hạnh phúc vô hạn. Cô dạy tôi những chữ cái và toán đầu tiên. Không những thế, cô còn dạy cho tôi những bài học quý giá về cách sống và cách làm người. Những bài học này sẽ theo bạn đến hết cuộc đời. Người bà và tình cảm mà bà dành cho những đứa cháu của mình đã mất đi chỗ dựa vững chắc cho đứa bé cả về vật chất lẫn tinh thần. Các từ “bà” và “cháu” được lặp đi lặp lại chỉ trong một câu thơ tạo nên hình ảnh chị em và cháu không thể tách rời nhau. Lời dặn dò trực tiếp của bà khi tôi viết thư cho bố không chỉ giúp tôi hình dung rõ nét giọng điệu, giọng nói, tình cảm, suy nghĩ của bà mà còn làm sáng tỏ phẩm chất của người mẹ Việt Nam ở đây, hình ảnh tấm lòng nhân ái, ấm áp, kiên nhẫn của bà đối lập với hình ảnh ngọn lửa thù địch. “Năm giặc đốt làng”. Bên cạnh ngọn lửa cướp đi mạng sống của kẻ thù, còn có một ngọn lửa thiêu sống khác.
Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Ngọn lửa bà thắp lên mỗi sáng đã trở thành ngọn lửa Thời gian trôi qua, năm tháng trôi qua, chiến tranh và nạn đói qua đi nhưng ngọn lửa này không hề bị dập tắt. Vì không phải chỉ thắp bằng củi rơm, mà bởi tấm lòng “sẵn sàng đón nhận” của mình, cô đã thắp lên ngọn lửa trong chính trái tim mình. Do đó, từ lò sưởi đến ngọn lửa với một ý nghĩa trừu tượng chung. Thành ngữ “lửa” và động từ “cháy, chứa” đã khẳng định sự bất diệt của ngọn lửa, ngọn lửa của niềm tin yêu trong trái tim họ. Hình ảnh bà bập bùng trong ngọn lửa hồng đã khắc sâu vào tâm trí người cháu. Trong cảm nhận của nhà thơ, ông không chỉ là một người nhóm lửa, người giữ lửa mà còn là một người truyền ngọn lửa, ngọn lửa sự sống, ngọn lửa niềm tin cho thế hệ mai sau.
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Giờ cháu đã đi xa.
Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…
Bài thơ Bếp lửa đó là một trong những sáng tác xuất sắc nhất của Bằng Việt. Trong tác phẩm ta không chỉ thấy hình ảnh một hình ảnh người bà tảo tần, chịu thương chịu khó, mà nổi bật là hình ảnh bếp lửa. Hình ảnh bếp lửa xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, là điểm tựa cảm xúc, là hình tượng trung tâm của tác phẩm, Đồng thời qua hình tượng này tư tưởng chủ đề của văn bản được thể hiện một cách sâu sắc nhất. Hình ảnh bếp lửa hiện lên trong bài thơ vô cùng giản dị, là hình ảnh quen thuộc của bất cứ gia đình nào trước đây. Qua đó gửi gắm những thông điệp sâu sắc của tác giả về người bà tảo tần, người giữ lửa truyền lửa cho thế hệ sau; là tấm lòng tri ân sâu sắc tiếp nối truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta.