Phân tích bài thơ Từ ấy của Tố Hữu chọn lọc hay nhất

Phân tích Từ ấy của Tố Hữu kèm theo dàn ý chi tiết giúp học sinh lớp 11 nắm bắt được nội dung chính và thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm.
A. DÀN Ý PHÂN TÍCH BÀI THƠ
1. Mở bài
a, Hoàn cảnh ra đời
Từ ấy là tập thơ đầu tiên của nhà thơ Việt Nam Tố Hữu, được sáng tác trong khoảng 10 năm kéo dài từ 1937 đến 1946. Phần lớn các bài thơ trong tập thơ được đăng lên báo chí công khai và bí mật từ những năm 1938, được tập hợp lại và xuất bản lần đầu năm 1946 với nhan đề Thơ, và năm 1959 tái bản có sửa chữa, bổ sung, dưới tên gọi Từ ấy. Cụm từ từ ấy bắt nguồn từ chủ đề của câu thơ trứ danh “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lý chói qua tim”
b, Nội dung
Từ ấy đã đánh dấu bước ngoặt trưởng thành vô cùng quan trọng của Tố Hữu trên chặng đường cách mạng. Nó là tiếng reo mừng, sung sướng của một người thanh niên trẻ khi được lý tưởng cách mạng soi sáng, để từ đó quyết tâm đem sức mình cống hiến cho Tổ quốc.
c, Nghệ thuật bài thơ
Bài thơ Từ ấy giàu nhạc điệu. Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình – chính luận, hướng người đọc đến chân trời tươi sáng
Sử dụng các biện pháp tu từ: ẩn dụ, so sánh, điệp ngữ
Hình ảnh thơ tươi sáng, rực rỡ
Giọng thơ tâm tình mà đậm chất trữ tình, chính trị
2. Thân bài
a, Khổ 1: niềm vui sướng say mê khi bắt gặp lý tưởng cách mạng
Hai câu thơ đầu: Viết theo lối tự sự, đơn giản như kể lại một kỉ niệm khó quên và sâu sắc nhất trong cuộc đời tác giả
– Mốc thời gian “từ ấy” là mốc son đầu tiên và chói lọi mở ra một bước ngoặt huy hoàng trong cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của nhà thơ Tố Hữu
– Hình ảnh “bừng nắng hạ” mang đến cảm giác tràn trề sinh lực, mãnh liệt điều ấy có thể đem so với cảm giác hạnh phúc mãnh liệt, niềm sung sướng và say mê đến tột cùng đang trào dâng trong trái tim máu nóng, tuôn trào trong huyết quản của người thanh niên trẻ trước sự kiện kết nạp Đảng khi 18 tròn
– “Mặt trời chân lý” là một hình ảnh mới lạ thể hiện sự sáng tạo của hồn thơ Tố Hữu, nó tỏa ra những ánh sáng rực rỡ, chói lọi của Đảng, của cách mạng, của chủ nghĩa Mác Lênin và thứ ánh sáng ấy vĩnh viễn là chân lý đúng đắn, sánh ngang cùng với mặt trời, là thứ ánh sáng đẹp đẽ đang chan chứa, xuyên thấu tận trong tâm hồn của nhà thơ
⇒ Động từ mạnh như “bừng” thể hiện nguồn ánh sáng mạnh và đột ngột, “chói” thể hiện sức lan tỏa xuyên thấu mãnh liệt không chỉ tác động đến thị giác mà còn tác động đến cả trái tim, xua tan đi màn sương mờ mịt của ý thức hệ tiểu tư sản mang đến một tư tưởng mới, một nhận thức mới về con đường giải phóng dân tộc.
Hai câu thơ sau: Chuyển sang bút pháp trữ tình diễn tả cụ thể, trực tiếp niềm hạnh phúc vô bờ đang chan chứa trong tâm hồn của mình
– Tâm hồn của tác giả khi bắt gặp ánh sáng cách mạng, lý tưởng Đảng cũng trở nên bừng sáng, tươi vui và tràn ngập sức sống, tựa như vườn hoa được tiếp thêm sinh lực, trở nên có ý nghĩa và tươi đẹp hơn gấp bội lần
– Lối thơ vắt dòng bắt nguồn từ thơ ca pháp, thể hiện cảm xúc tràn trề chan chứa, dường như không thể gói gọn trong một câu thơ riêng lẻ mà buộc phải truyền tải sang câu thơ tiếp
b, Khổ 2: nhận thức mới về lẽ sống
– Lẽ sống mới của Tố Hữu được thể hiện qua những từ ngữ đặc sắc, có tác dụng gắn kết như: “buộc”, “trang trải”, “gần gũi”, “khối đời”
+ buộc: buộc chặt, gắn bó với mọi người → ý thức quyết tâm cao độ muốn thoát khỏi giới hạn của cái tôi cá nhân để hướng vào cộng đồng
+ trang trải: sự trải rộng tâm hồn ra với đời
+ gần gũi: gần nhau về quan hệ tinh thần, tình cảm, đó là sự gắn bó ruột thịt
+ khối đời: hình ảnh ẩn dụ, chỉ một khối người đông đảo, cùng chung lý tưởng. Đó là sức mạnh của tập thể nhân dân
– Điệp từ “để” tạo nhịp thơ dồn dập, thôi thúc, hăm hở
– Tứ “với” tạo mối liên kết chặt chẽ với nhân dân
→ Lẽ sống mới được đặt ra ở đây là cái tôi hòa vào cái ta, mối quan hệ hài hòa giữa riêng – chung, cá nhân – cộng đồng. Đó là mối quan hệ đoàn kết gắn bó, tạo ra sức mạnh trong cuộc đấu tranh cách mạng
c, Khổ 3: Sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm
– Tôi đã là … → cấu trúc khẳng định rõ ràng nhận thức của tác giả về vị thế của mình trong gia đình lớn, khẳng định ý thức tự giác, chắc chắn, vững vàng của tác giả
+ Điệp từ “là”: mang tính khẳng định
+ Số từ ước lệ “vạn”
+ Cách xưng hô ruột thịt “con, em, anh”: khẳng định tình cảm đầm ấm, thân thiết, ruột thịt
– Từ ngữ biểu cảm “kiếp phôi pha”, “cù bất cù bơ”: Tấm lòng đồng cảm xót thương tới những kiếp người đau khổ, bất hạnh, những con người lao động vất vả.
→ Đây là tình cảm mới mẻ và cao đẹp của một người chiến sĩ cách mạng, một nhà thơ cách mạng
3. Kết bài
Khẳng định lại nội dung và giá trị nghệ thuật của cả bài thơ
B. BÀI MẪU PHÂN TÍCH
Từ lâu, Tố Hữu đã sớm giác ngộ cách mạng và từ ấy sự nghiệp, thơ ca gắn liền với sự nghiệp cách mạng. “Từ ấy” là bài thơ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời thơ ca của ông. Bài thơ được sáng tác sau một cuộc hội ngộ kỳ lạ của tác giả, tạo nên chất men say của tình yêu đằm thắm với lý tưởng cách mạng và cuộc đời.
Trước hết ở khổ 1, bài thơ bộc lộ niềm vui sướng, say mê khi bắt gặp ánh sáng lý tưởng của Đảng:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim”
Hai câu thơ được viết theo bút pháp tự sự, nhà thơ kể về một kỷ niệm không thể nào quên của cuộc đời mình. “Từ ấy” là mốc thời gian có nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời cách mạng và đời thơ của Tố Hữu. Khi đó nhà thơ mới 18 tuổi, đang hoạt động tích cực trong Đoàn thanh niên cộng sản Huế. Ông đã được giác ngộ lý tưởng cộng sản, được kết nạp vào Đảng.
Được đứng vào hàng ngũ của những con người chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp, để khi nhắm mắt xuôi tay không phải hổ thẹn bởi những năm tháng đã sống hoài sống phí. Đó là lý tưởng cao đẹp, lý tưởng của một thời đại. Lý tưởng của Đảng có vai trò quan trọng trong việc xây dựng nhân cách, suy nghĩ, tư duy, hướng phấn đấu cho mỗi cá nhân. Bằng những hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ, mặt trời chân lý,…” Tố Hữu khẳng định lý tưởng cộng sản như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ, Nguồn sáng ấy không phải là ánh thu vàng nhẹ hay xuân dịu dàng, mà là ánh sáng rực rỡ của một ngày nắng hạ.
“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Hai câu thơ sau được viết bằng bút pháp trữ tình, lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh đã diễn tả cụ thể niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với lý tưởng cộng sản. Đó là một thế giới tràn đầy màu sắc, sức sống cùng với hương thơm của các loài hoa, vẻ tươi xanh cây làm rộn rã tiếng chim hót. Đối với vườn hoa lá ấy còn gì đáng quý hơn ánh sáng mặt trời? Đối với tâm hồn người thanh niên đang “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, còn gì đáng quý hơn khi có lý tưởng cao đẹp soi sáng, dẫn dắt?
Ở khổ thơ thứ hai, Tố Hữu bộc lộ những nhận thức mới mẻ về lẽ sống:
“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi”
Trong quan niệm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao cái tôi cá nhân, chủ nghĩa. Khi được giác ngộ lý tưởng, Tố hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa “cái tôi” cá nhân và “cái ta” chung của mọi người. Với động từ “buộc”, câu một là một ẩn dụ thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của “cái tôi” cá nhân để sống chan hòa với mọi người.
Với từ “trang trải” ở câu hai, có thể liên tưởng tâm hồn nhà thơ trải rộng với cuộc đời. Câu thơ đã tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể
“Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”
Hai câu thơ cho thấy tình yêu thương con người của tác giả không phải là thứ tình thương chung chung mà là tính hữu ái giai cấp. Câu thơ thứ 3 khẳng định trong mối quan hệ với mọi người nói chung, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Ở câu 4, khối đời là ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Họ gắn kết với tinh thần quốc tế vô sản, gắn kết toàn dân tộc thành một khối thống nhất. Qua đó, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của nhân dân
Khổ thơ thứ ba là sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của nhà thơ Tố Hữu đối với quê hương, đất nước:
“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha”
Những điệp từ “là cùng với các từ “con, em, anh” và số từ ước lệ “vạn” nhấn mạnh, khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm, thân thiết. Cho thấy nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bản thân mình là một thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ. Tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ còn biểu hiện thật xúc động, chân thành khi nói tới những kiếp phôi phai
“Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ”
Với hình ảnh thơ tươi sáng, ngôn ngữ mộc mạc, giàu tính dân tộc, gợi cảm, giàu nhạc điệu, nhẹ nhàng, sâu lắng, giọng thơ chân thành, sôi nổi, nồng nàn. Thơ gần gũi với hình thức thơ mới, dùng nhiều hình ảnh tượng trưng… đã để lại nhiều ấn tượng trong lòng độc giả bao thế hệ. Qua bài thơ, lớp trẻ càng thêm yêu thiên nhiên, đất nước, và sống có mục đích, lý tưởng trong sáng hơn.