Phân tích bài Người ở bến sông Châu chọn lọc hay nhất

Người ở bến sông Châu, một tác phẩm để lại trong lòng người đọc những nỗi xót xa về nghịch cảnh của người lính ngày trở về điển hình là nhân vật dì Mây. Viết về thân phận con người sau chiến tranh, tác giả Sương Nguyệt Minh đã thể hiện cách nhìn độc đáo qua số phận người phụ nữ. Mời các bạn cùng tìm hiểu thêm về nội dung cũng như ý nghĩa của tác phẩm qua các bài văn mẫu phân tích Người ở bến sông Châu trong bài viết sau đây của Trường Cao Đẳng Kiên Giang.
1. Phân tích tác phẩm Người ở bến sông Châu chọn lọc siêu hay – Mẫu số 1
Cuộc chiến tranh giúp dân tộc Việt Nam có được độc lập, tự do như ngày hôm nay cũng để lại quá nhiều mất mát, đau thương và chia lìa số phận con người. Truyện Người ở bến sông Châu của tác giả Sương Nguyệt Minh kể về nỗi đau của một người phụ nữ trong chiến tranh bị mất đi đôi chân, mất chồng và con, tức là cô y tá Mây dũng cảm, tốt bụng.
Ngoài ra, nó còn nói lên nỗi đau về số phận của mỗi người. Mở đầu câu chuyện là cảnh dì Mây xách ba lô trở về làng với chiếc chân bị cụt khi gia đình nhận được cáo phó. Ngày cô trở về cũng là ngày chú San, người tình lâu năm của cô kết hôn. Anh van xin cô nối lại tình xưa vì cho rằng cô đã hy sinh nơi chiến trường rồi mới tính đến chuyện kết hôn, nhưng Mây từ chối vì tiếc cho số phận khi chiến tranh đã lấy đi tuổi trẻ và sắc đẹp của cô, và nhẫn tâm lấy đi cuộc đời mình.
Vài ngày sau, trái ngược với niềm hạnh phúc vô bờ bến của mẹ chồng và mọi người khi Mây trở về, tâm trạng cô vẫn nặng trĩu. Khi vợ chú San cạn nước ối, dì Mây đỡ đẻ, sau cùng, dì Mây gục mặt xuống bàn khóc nức nở. Cô đã không nhận lời hứa chăm sóc mẹ suốt đời của trinh sát Quang khi gặp trên đường và tìm đến nhà. Cô chọn cách chăm sóc con chó và dì, mẹ cô đi lấy nước và phải nằm.
Bằng bút pháp miêu tả tài tình, cốt truyện lôi cuốn, tác giả để lại ấn tượng mạnh khi người xem thấu hiểu được những vết thương lòng của người con gái trong chiến tranh xoay quanh cuộc đời dì Mây cũng như hiện thực làng quê, qua đó bày tỏ sự đồng cảm với những người phụ nữ như Dì Mây người đã hy sinh tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và tình đoàn kết, yêu quê hương đất nước giữa các dân tộc anh em.
2. Phân tích tác phẩm Người ở bến sông Châu chọn lọc siêu hay – Mẫu số 2
Đề tài hậu chiến không còn là đề tài xa lạ trong văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Là một nhà văn quân đội, tác giả Sương Nguyệt Minh đã mang đến cho người đọc những góc nhìn mới về hiện thực cuộc sống thời hậu chiến qua truyện ngắn Người ở bến sông Châu. Tác phẩm đã phản ánh chân thực hoàn cảnh, số phận của con người từ sau ngày đất nước thống nhất.
Sau năm 1975, hai miền Nam Bắc về chung một nhà, cả nước hân hoan, vang khúc ca khải hoàn. Người ta tin rằng hết chiến tranh là hết đau thương, mất mát. Nhưng không phải vậy, con người ta vẫn phải đấu tranh ngay cả trong thời bình, giống như cách dì Mây cố gắng vượt qua nỗi đau. Số phận của dì Mây trong tác phẩm cũng là hoàn cảnh của biết bao con người vươn lên từ đống hoang tàn, đổ nát do chiến tranh để lại.
Là cô y tá Trường Sơn, dì Mây trở về với thân hình lỗi lầm. Người ta nói “Cô y tá Trường Sơn bị mảnh đạn găm vào chân”. Trước khi ra trận, dì Mây có mái tóc cực kỳ đẹp, “mái tóc đen óng ả” đến nỗi chú San “núp trong hàng dâm bụt lén lút cũng phải ngạc nhiên”. Chạy ngược chiều gió, “tóc dì tung bay phấp phới như mây”. Tuy nhiên, khi trở về, tóc dì “rụng nhiều, xơ xác và xơ xác”. Có lẽ, chiến tranh đã tàn phá sức khỏe của dì cô. Đồng thời đánh cắp vẻ đẹp tươi trẻ, đánh cắp cô gái trẻ tràn đầy sức sống.
Không chỉ có số phận bất hạnh, phải chịu nỗi đau về thể xác, dì Mây còn sống trong sự dằn vặt, ám ảnh về tinh thần. Chiến tranh gây ra biết bao bi kịch, tước đi hạnh phúc vốn có của con người. Ngày bác lao ra mặt trận trở về bên bờ sông Châu cũng là ngày người yêu bác San đi lấy chồng khác. Khi biết tin người mình yêu đi lấy chồng, dì Mây vô cùng đau buồn và ngạt thở. Ngồi nói chuyện với ông bà mà tâm trí dì hướng về nhà chú San. Dù rất yêu San nhưng dì Mây vẫn quyết tâm đoạn tuyệt tình cảm với anh để quay về với vợ. Tác giả đã tạo ra một tình huống éo le và trớ trêu giữa hai người. Có lẽ, trong tâm trí của mọi người, dì May đã hy sinh trên chiến trường. Chính vì vậy, chú San đã quyết định làm đám cưới sau nhiều tháng chờ đợi tin tức từ người yêu. Tình huống trớ trêu này cũng là thực tế khắc nghiệt khi chiến tranh kết thúc. Chiến tranh gây ra nhiều hiểu lầm không đáng có và là căn nguyên của sự chia cắt. Sau này, chúng ta còn thấy sự xuất hiện của chú Quang. Chú Quang cũng có tình cảm đặc biệt với dì Mây. Biết được điều này, dì May tủi thân và quyết định không đáp lại. Dường như những khiếm khuyết cơ thể do chiến tranh để lại khiến người ta không dám đi tìm hạnh phúc cho riêng mình. Đặc biệt, chiến tranh đã đẩy nhiều gia đình vào cảnh ly tán, tang gia. Vì trúng bom bi trong lúc nấu chè mà thím Ba đã qua đời. Cái chết của dì khiến ai cũng thương cảm và không nguôi nỗi xót xa. Thằng cún – con của dì cũng mồ côi mẹ từ đó.
Khác với văn học giai đoạn trước, văn xuôi Việt Nam sau 1975 đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Con người trong văn chương không còn là một con người đẹp toàn bích như cô Nguyệt trong “Vầng trăng cuối rừng” của nhà văn Nguyễn Minh Châu mà hiện diện với vẻ đẹp giản dị, đời thường và cô Mây trong tác phẩm cũng như trong cuộc sống. vị trí của cuốn sách. Vẻ đẹp, phẩm chất và nhân cách của dì Mây để lại cho người đọc rất nhiều cảm xúc và ngưỡng mộ.
Trước hết, dì May là một cô gái cực kỳ trung thành. Dù phải tạm xa chú San thân yêu để lên đường làm bác sĩ Trường Sơn, nhưng dì Mây vẫn mang theo hình bóng của chú “Chú viết tên chú trên từng trang báo”. Tuy nhiên, biết chú San đã có vợ, dì Mây nhất định không đồng tình với lời đề nghị “Mây! Mình làm lại nhé”, “Em bỏ hết đi. Mình về sống chung”. Thái độ của dì Mây rất kiên quyết và dứt khoát. “Đứng lên, chống nạng gỗ đi trong sân” để lại của chú San đã thể hiện rõ điều này. Dì Mây nhận phần thiệt về mình để người mình yêu được hạnh phúc. Câu nói “Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Dù sao cũng chỉ có một người đàn bà khốn khổ. Anh về đi!” khiến người đọc xót xa. Cô tôi khuyên chú San về với vợ, sống cho hạnh phúc. Nếu dì chấp nhận lời đề nghị của anh ta, cả ba sẽ đau khổ. Vì vậy, cô đã đồng ý buông bỏ tình yêu sâu nặng của mình để nuôi dưỡng đôi tân hôn. Dù đau đớn về thể xác lẫn tinh thần, nhưng chưa bao giờ chúng tôi thấy dì May có ý định từ bỏ cuộc đời mình. Cô ấy luôn tỏa ra một nghị lực sống phi thường. Bị mất một chân, dì vẫn chống nạng giúp dì chèo đò, vẫn sống sau cú sốc đau đớn.
Đặc biệt, dì Mây còn là người nhân hậu, giàu tình thương. Kể từ ngày giúp ông chèo thuyền, cô ấy chưa bao giờ lấy tiền của học sinh trung học. Nghe họ nói vậy, dì anh cười trêu: “Đáng đời, mắc nợ thêm rồi mới trả”. Những đêm mưa gió, đường đất đá, dì luôn cặm cụi ở nhà kiểm tra mọi người. Thấy dì đi lại khó khăn, trưởng trạm y tế khuyên dì học đi xe đạp, ông sẽ đặt đá sa thạch lên người dì. Đáp lại lời của ông nội, dì của cô nói: “Trạm xá thiếu thuốc. Tôi cố gắng, giống như người tập thể dục. Câu trả lời này cho thấy cô ấy rất giàu lòng hy sinh, luôn đặt lợi ích của người khác lên trên lợi ích của mình. Một đêm mưa gió, vợ chú San sinh non. Thấy Thành lâm vào tình thế nguy hiểm, dì không màng đến lời dì Ba nói gì mà sẵn sàng giúp vợ chú San sinh con. Ở hoàn cảnh của dì tôi, thật không dễ dàng gì, nhưng dù sao dì cũng có lòng giúp đỡ tôi. Hơn hết, khi dì Ba đau buồn qua đời vì một vụ nổ, dì đã giang rộng vòng tay, chăm sóc và yêu thương dì. Dì Mây hội tụ nhiều đức tính, vừa kiên cường, mạnh mẽ, vừa bao dung, vị tha.
Hiểu được tác phẩm, tôi càng cảm thông và xót xa cho người lính. Từ đó, biết trân trọng cuộc sống hạnh phúc, bình yên của ngày hôm nay. Có thể nói, cuốn sách đã chạm đến trái tim người đọc bởi những giá trị nhân văn và ý nghĩa của nó.
Trên đây Trường Cao Đẳng Kiên Giang vừa giới thiệu tới bạn đọc bài viết Phân tích bài Người ở bến sông Châu chọn lọc hay nhất. Mời các bạn tham khảo!