Giáo dục

Hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

tìm hiểu hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là tài liệu hữu ích nhằm tạo điều kiện cho những em lớp 11 tự học một cách thuận lợi, đặc biệt là trong việc chuẩn bị bài ở nhà trước khi tới lớp. Từ đó đạt được kết quả cao trong những bài kiểm tra, bài thi sắp tới. Hãy cùng tham khảo bài viết dưới đây Trường Cao Đẳng Kiên Giang chia sẻ nhé!

Bài văn “tìm hiểu hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ Đây thôn Vĩ dạ”

Hàn Mặc Tử là một trong những thi sĩ xuất chúng nhất của thơ mới, ông sống ngắn ngủi trong đời nhưng lại bất tử trong thơ. Ông viết thơ theo phong cách “thơ Điên”, theo lối siêu thực tượng trưng, từ thơ cổ điển Đường luật, sau chuyển sang thơ mới lãng mạn. Qua những bài thơ phức tạp và đầy ngụ ý của Hàn Mặc Tử, người ta vẫn nhìn thấy rõ một tình yêu khổ đau với cuộc sống hiện thực. Bài thơ Đây thôn vĩ dạ được viết năm 1938, in trong tập “Đau thương”, và đây cũng chính là tiếng vang trong sáng từ bản giao hưởng đau buồn ấy. Sự ra đời của bài thơ có liên quan tới tình cảm đơn phương của Hàn Mặc Tử với Hoàng Thị Kim Cúc – một cô gái quê ở Vĩ Dạ, một làng nhỏ bên sông Hương ở xứ Huế yên bình và trữ tình. Trong nỗi nhớ và niềm yêu với người con gái xứ Huế, bài thơ còn khắc họa một bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời nơi thôn Vĩ, từ đó cũng phản ánh sâu sắc sự cô độc, tiếc thương và những nỗi buồn ngất ngưởng trong lòng tác giả.

Mở đầu bài thơ, Hàn Mặc Tử vẽ lên trước mắt độc giả một bức tranh tuyệt mỹ của thiên nhiên thôn Vĩ lúc rạng đông:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn người nào mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu thơ trước hết là nghi vấn tu từ đa ý nghĩa, ở đó có cả lời gợi nhớ, mời gọi, oán trách dịu dàng và âu yếm. Người đặt ra nghi vấn ấy có thể là một cô gái thôn Vĩ trong tưởng tượng của tác giả, cũng có thể là tác giả tự hỏi bản thân. nghi vấn trước hết cũng là cái cớ nghệ thuật để giới thiệu về thôn Vĩ. Ba câu thơ tiếp theo mỗi câu thơ là một nét vẻ đẹp hợp thành một bức tranh vườn tược kỳ diệu.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn người nào mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Nét riêng của thôn Vĩ quê hương người con gái được gợi mở ở câu trước hết đã được trình bày rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp hiện ra trước mắt người đọc. Nắng ở đây là nắng mới lên, những tia nắng trước hết của một ngày, nó mang lại bao nét mới lạ, trong sáng rực rỡ mà vẫn êm dịu. Những ngọn cau cao vút và bỗng nhiên trở nên tươi thắm lộng lẫy, tràn đầy sức sống trước ánh nắng rạng đông. Cái “nắng hàng cau nắng mới lên” sao lại gợi một nỗi niềm làng quê quê hương tới thế. Câu thơ này bất thần khiến ta liên tưởng tới những câu thơ của Tố Hữu trong bài “Xuân lòng”. Nắng mới, nắng xuân xuyên qua từng kẽ lá làm tan chảy những hạt sương đêm, nhỏ giọt xanh như ngọc. Thiên nhiên xứ Huế xanh đẹp, sức sống tràn trề “màu xanh như ngọc”, tác giả thử bị cuốn hút sức sống, vẻ đẹp của con người xứ Huế. Cô gái trách móc nhân vật trữ tình bằng giọng nói nhẹ nhõm, nhưng đầy tình cảm và tế nhị. Câu trách của cô không làm người khác cảm thấy khó chịu hay oán giận, mà chỉ toát lên sự quan tâm và yêu thương. Sau câu trách ấy là một bức tranh thiên nhiên lãng mạn được trình bày. Tác giả đã không chỉ sử dụng tiếng nói để vẽ tranh, mà còn sử dụng cả xúc cảm trong lòng để tạo nên bức tranh đẹp tới ngỡ ngàng. Thiên nhiên trở nên rực rỡ, tươi mới và tràn đầy sức sống. Từ “nắng mới lên” khiến người đọc liên tưởng tới ánh nắng sớm mai rét mướt, dịu dàng và thanh thoát. Nắng mới lên chiếu sáng hàng cau xanh biếc, tạo nên một quang cảnh mát mẻ và trong sạch.

Đối với tác giả, tình yêu say đắm mà ông dành cho nơi đây đã tạo nên những vần thơ đẹp, đầy xúc cảm trong tâm hồn thi sĩ, nhẹ nhõm đi vào lòng người. Không phải xanh biếc, cũng không phải xanh khai màn mà chỉ có “xanh như ngọc” mới diễn tả được vẻ đẹp sum suê, sự sống của vườn tược. Một màu xanh quý phái, không một tẹo sóng, một màu xanh tỏa sáng tạo nên vẻ đẹp nhóng nhánh, trong suốt làm cho vườn cây càng óng ánh lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự thanh khiết sơ khai chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua, Vĩ Dạ – một làng quê nằm bên bờ Hương Giang thuộc ngoại thành cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xẻo thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt câu hát Nam người nào, Nam bình, qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng thiết tha yêu thương. xa rời Huế và Vĩ Dạ đã bao năm tháng rồi. vậy mà cảnh sắc và con người nơi thôn Vĩ vẫn được thi sĩ ôm ấp trong lòng, càng trở nên lung linh, biểu lộ niềm ước mong tha thiết được trở lại cổ đô thăm cảnh cũ người xưa. Bức tranh tâm trạng đã được thể hiện một cách tài hoa qua bức tranh thôn Vĩ hữu tình nên thơ.

Bức tranh thiên nhiên hiện ra đẹp tuyệt vời và hài hòa tuyệt vời với hình ảnh con người. Con người ở đây không xuất hiện một cách rõ ràng, không khoe khoang, cũng không phải những mặc khách tạo nhân. Đó là những gương mặt hiền hậu, thực tình chất phác mà vẫn toát lên vẻ giản dị mộc mạc chân phương, nét chữ diễn cứng cáp hài hòa với sự dịu dàng, nhẹ nhõm và cảnh đẹp nên thơ, nên nhạc của xứ Huế: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia nhánh lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất thần mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh thoát, duyên dáng che ngang khuôn mặt chữ điền. “Mặt chữ điền” – khuôn mặt ấy chỉ hiện ra thoáng qua sau lá trúc mơ hồ, ảo ảo thực thực. Thôn Vĩ nằm sắp ngay bờ sông Hương em đếm nên chắc chắn nhịp sống của con người ở đây cũng sẽ bị chi phối bởi cái êm đềm của sông Hương: “Dòng sông Hương vẫn êm đềm lững lờ trôi” – nhẹ nhõm mà vô cùng đẹp. Từ cách tả cảnh làng quê ở khổ đầu tác giả đã chuyển sang tả cảnh sông với niềm lưu luyến, nỗi mong nhớ, sầu muộn hư ảo trong giấc mộng. Ở khổ thơ thứ hai tâm trạng của tác giả đã chuyển sang một gam khác nên bước vào khổ thơ này chính là bước vào không gian tâm trạng riêng của Hàn Mặc Tử:

“ Gió theo lối gió, mây đường mây

Thuyền người nào đậu bến sông trăng đó

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Có chở trăng về kịp tối nay”

“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

thực tế phiêu diêu khởi đầu bao phủ cả bài thơ. Nhịp thơ 4/3 cùng với hai hình ảnh đối lập: “gió” và “mây” đã gợi lên nỗi buồn vì mây và gió trôi nổi, lang thang chính vì vậy mà nó bay thẳng vào thơ của Hàn Mặc Tử. Cái buồn sẵn có của nó phối hợp với vần thơ của tác giả thì chính nó đã tự làm cho nó buồn hơn bởi: gió đi theo đường của gió, mây theo đường của mây, gió và mây từ nay xa rời nhau, không còn là bạn đồng hành của nhau nữa nên không còn lý do gì để gặp nhau. Mượn hình ảnh mây và gió tác giả muốn nói lên tâm trạng buồn của mình, về sự xa rời của mình và người yêu và cũng có thể sự xa rời đó là vĩnh viễn vì Hàn Mặc Tử bây giờ đã là một truất phế nhân, đang nằm chờ cái chết. Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi mát, đầy sức sống như ở đoạn trước nữa nhưng lại bắt gặp một tâm hồn đau buồn, u uất.

Dòng sông Hương hiện lên mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt. Với giải pháp nhân hóa “dòng nước buồn thiu” đã làm cho hình ảnh dòng nước trở nên u buồn, xa vắng. “Dòng nước buồn” vì tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn chia phôi của gió – mây đã bỏ buồn vào dòng sông? Câu thơ này nhường nhịn như còn thể hiện nhịp sống thường nhật của người dân nơi đây: một lối sống êm đềm và buồn tẻ. Hình ảnh “hoa bắp lay” gợi một nỗi buồn hiu hắt – một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời tới mặt đất, từ đất, gió, mây tới dòng nước và hoa bắp trên sông. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa rời, một mối tình vô vọng, tất cả bây giờ chỉ là hư ảo trong mộng tưởng. Đêm tới, nỗi buồn ấy phối hợp với cảnh lại càng thấm sâu, lan rộng hơn, nó như thấu vào tận tâm tư của thi sĩ. Ánh trăng bao trùm khắp không gian tạo nên dòng sông trăng, bến sông trăng và thuyền chở trăng. Theo phong cách thơ của Hàn Mặc Tử, ta cũng có thể hiểu là ánh trăng tạo nên một dòng sông, một con thuyền, một bến đỗ. Không gian ở đây thật đẹp nhưng lạnh lẽo và hiu quạnh. Hình ảnh thuyền chở trăng mang ý nghĩa biểu tượng khác với hình ảnh:

‘Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”

Trăng là bạn tri kỉ tri kỷ, thuyền chở trăng là biểu tượng cho khát khao được giao lưu, khát khao được hạnh phúc của Hàn Mặc Tử. Tác giả hy vọng trăng sẽ chẳng như gió, mây đang rời xa tác giả mà trăng sẽ từ nơi xa để trở về. Tối nay là tối nào ta không biết rõ chỉ biết rằng thời gian của tối nay sắp hết. nếu như thuyền chở trăng về kịp, tác giả sẽ có được hạnh phúc, có được sự sẻ chia đồng cảm còn trái lại tác giả sẽ chết đắm trong biển sầu cô độc, Trong tối nay, trăng như một vị phúc tinh và tâm trạng của tác giả với trăng được thể hiện tập trung trong từ “ kịp”. Ở từ ngữ giản dị này, ta thấy có sự đợi chờ trông ngóng, có hy vọng phong phanh, có phấp phỏng lo lắng. Từ “ kịp” thể hiện tâm thể sống vội vàng của Hàn Mặc Tử. nếu như Xuân Diệu hoàn toàn chủ động trong sự vội vàng và vội vàng vì muốn tận hưởng tất cả thì Hàn Mặc Tử lại hoàn toàn thụ động trong sự vội vàng và sự vội vàng đó xuất phát từ nhận thức về một cái chết đang kế cận. Vì biết có thể sẽ ra đi bất cứ lúc nào, biết rằng thời gian không còn nhiều, nên giờ đây thi nhân đang vô cùng khát khao, và mọi niềm khát khao của Hàn Mặc Tử đều quy tụ về hình ảnh con người.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

người nào biết tình người nào có mặn mòi”

Con người ở đây được gọi là “em” là “ khách”, là người em thôn Vĩ nào đó. nếu như cách sử dụng từ “em” thể hiện sự thân thiết, sắp gũi thì cách sử dụng từ khách lại gợi sự xa lạ. Khách lại ở trên phố xa, đồng hành với điệp khúc: “khách đường xa” nên càng xa lạ, xa rời hơn. Cách nói “ áo em trắng quá nhìn không ra” vừa là cách cực tả sắc trắng tới mức thị giác phải bất lực, vừa nhẫn mạnh khoảng cách giữa nhân vật trữ tình và em. Khách lại xuất hiện trong mơ, được nhìn qua sương khói nên thêm phẩm hư ảo nhạt nhòa. “ Ở đây” là không gian gắn liền với cuộc sống của Hàn Mặc Tử trong hiện tại, là nơi của cô độc, của bệnh tật giày vò. Nó hoàn toàn đối lập với ngoài kia bởi ngoài kia là đông vui, là hạnh phúc. Sương khói của thế cục đã tạo nên một khoảng cách vô cùng, không thể nào thu hẹp, không thể nào vượt qua giữa “ở đây” và “ngoài kia”. Nhận thức về điều đó, Hàn Mặc Tử để thể hiện nỗi băn khoăn” người nào biết tình người nào có mặn mòi?” Đại từ “người nào” có thể hiểu là tác giả cũng có thể hiểu là người ngoài kia. Điều khiến thi sĩ băn khoăn ở đây chính là sự mặn mòi của tình người.

Với thể thơ thất ngôn, lời thơ biểu tượng siêu thực của phương Tây, nghệ thuật nhân hóa, văn pháp gợi tả, bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ là bức tranh đẹp về miền quê quốc gia, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chúng ta phần nào thấy được một bức tranh xứ Huế đẹp mộng mơ, tao nhã. Và trong cái quang cảnh đó, trái tim của người nghệ sĩ, thi sĩ như Hàn Mặc Tử hay bất kỳ người nào yêu thiên nhiên cũng có thể bộc lộ được cái tâm trạng xúc cảm của mình. Một xứ Huế đẹp mộng mơ qua hình ảnh thôn “Vĩ Dạ” nhưng lại đượm buồn, nhung nhớ. Bài thơ mượn hình ảnh thiên nhiên, để gột tả nên tâm trạng một con người đang đơn chiếc và chờ đợi. Thôn Vĩ chính là một hình ảnh đẹp về một vùng đất của xứ Huế sẽ làm say đắm lòng người, và sẽ làm mê mẩn những tâm hồn thi sĩ. Bài thơ thể hiện một tình yêu thiên nhiên và tâm trạng của Hàn Mặc Tử thực sự rất sâu sắc bởi chính ông.

Trên đây là bài văn mẫu tìm hiểu hình ảnh thiên nhiên và con người trong Đây thôn Vĩ Dạ được Trường Cao Đẳng Kiên Giang lựa chọn lọc hay nhất. Hy vọng bài chia sẻ trên giúp những bạn học sinh lớp 11 chuẩn bị tốt và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Chúc những bạn học tập tốt. thực tình cảm ơn những bạn đã quan tâm theo dõi bài viết của chúng tôi!

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button