Hãy kể những điều em biết về các vua Hùng hay nhất

Không giống với lịch sự giai đoạn trị vì của các triều đại, giai đoạn chống Pháp hay đánh Mỹ, lịch sử đất nước từ thuở khai thiên lập địa ít được lưu truyền qua sách vở mà chủ yếu được truyền miệng qua các sự tích. Câu chuyện về các vua Hùng – người đã có công dựng nước, giữ nước là đề tài vẫn còn nhiều nghiên cứu và được quan tâm cho đến nay.
Mỗi dân tộc hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau và mang sắc thái khác nhau nhưng dân tộc nào cũng có nhu cầu tâm linh là giải thích quá khứ hình thành, tồn tại của mình. Việt Nam thường gắn biểu trưng là con Rồng, cháu Tiên và khởi nguồn dân tộc là sự sáng lập ra nhà nước của các vua Hùng. Bài viết dưới đây của Trường Cao Đẳng Kiên Giang sẽ giới thiệu những câu chuyện nhỏ để quý độc giả được trau dồi hiểu biết về các vị vua Hùng của dân tộc.
1. Hùng Vương là ai?
Hùng Vương hay Vua Hùng là cách gọi dành cho các vị vua nước Văn Lang của người Lạc Việt, tồn tại vào khoảng thế kỷ VII tới thế kỷ II TCN. Câu chuyện các vua Hùng không có trong chính sử mà nằm trong các truyền thuyết dân gian của người Việt được kể lại qua nhiều đời. Với người Việt Nam, các vua Hùng đại diện cho tổ tiên, cho truyền thống dựng nước và là niềm tự hào về nền văn minh đậm đà bản sắc riêng suốt nhiều nghìn năm.
2. Một số đoạn văn ngắn nêu lên hiểu biết về các vua Hùng hay nhất:
2.1. Đoạn văn số 01
Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây lịch?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, để một lần được một trăm người con trai. Sau Lạc Long Quân đem 50 con xuống bể Nam Hải, Âu Cơ cùng 50 người con ở lại đất Phong Châu, tự suy tôn người con trưởng lên làm vua, đặt tên nước là Văn Lang, lấy hiệu là Hùng Vương. Đất nước được chia ra làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức; đóng đô ở bộ Văn Lang, Phong Châu.Triều đình có tướng văn, tướng võ. Con trai của vua gọi là Lang, con gái của vua gọi là Mị Nương. Khi cha chết thì ngôi vua truyền cho con trai trưởng, mười mấy đời nối ngôi đều lấy hiệu là Hùng Vương.
2.2. Đoạn văn số 02
Kinh Dương vương là một nhân vật truyền thuyết, ông nội Hùng Vương thứ nhất, thuộc dòng dõi Vua Thần Nông vốn được suy tôn làm thủy tổ của người Bách Việt. Dã sử chép Kinh Dương vương tên húy là Lộc Tục, là người hình thành nhà nước sơ khai đầu tiên vào năm Nhâm Tuất (~2879 TCN), đặt quốc hiệu là Xích Quỷ. Lãnh thổ của quốc gia dưới thời Kinh Dương vương rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Hoa ngày nay). Kinh Dương vương truyền ngôi cho con là Lạc Long Quân. Kinh Dương vương có thể là danh hiệu đời sau truy tặng cho một tù trưởng bộ lạc đã góp công vào việc thống nhất tộc người Lạc Việt, có thể là tù trưởng bộ lạc Văn Lang trước Hùng Vương. Sự nghiệp của ông được tiếp nối bởi Lạc Long Quân và Hùng Vương đời thứ nhất. Niên đại của Kinh Dương vương là trước thế kỷ VII TCN bởi theo các bằng chứng khảo cổ học thì nhà nước đầu tiên Văn Lang được thành lập vào thế kỷ VII TCN.
2.3. Đoạn văn số 03
Con của Lạc Long Quân là Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang, chia nước ra làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức; đóng đô ở bộ Văn Lang, Phong Châu. Về bờ cõi, nước đông giáp biển Đông, tây đến Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc), bắc đến hồ Động Đình (Hồ Nam, Trung quốc), nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành.
Hùng Vương sai các em trai phân trị, đặt em thứ làm Tướng võ, Tướng văn. Tướng văn gọi là Lạc Hầu, Tướng võ là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương, quan Hữu ty gọi là Bố chính, thần bộc nô lệ gọi là nô tỳ, xưng thần là khôi, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo, thay đời truyền nhau cho đến hiệu là Hùng Vương không đổi. Thời kỳ Hùng Vương bắt đầu tính từ thời Kinh Dương Vương (2879 TCN) cho đến hết thời Hùng Vương (năm 258 TCN) kéo dài 2.622 năm. Nhà nước Văn Lang tồn tại đến năm 258 TCN thì bị Thục Phán (tức An Dương Vương) thôn tính.
3. Một số truyền thuyết dưới thời vua Hùng:
3.1. Truyền thuyết “Vua Hùng trồng kê ra lúa”
Một hôm các con gái vua Hùng theo dân đi đánh cá ven sông thấy từng đàn chim bay lượn khắp bãi, nhảy nhót trong đám lau cỏ, khiến các nàng rất vui thích. Có một nàng công chúa, mải ngắm đàn chim, dừng tay quăng lưới, chợt có con chim thả một bông kê rơi trên mái tóc. Công chúa mang bông kê về trình với Vua, Vua mừng, cho là điềm tốt lành, hạt này chim ăn được chắc người cũng ăn được liền bảo các Mỵ nương ra bãi tuốt các bông đó đem về.
Tới mùa xuân, Vua đem các hạt kê ra và phái các công chúa gọi dân đi quải. Nhân dân vui mừng rước Vua ra đồng. Trống mõ đi đầu rồi tới người rước lúa, rước kê. Tới bên sông, Vua xuống bãi lấy que nhọn chọc đất tra lúa và gieo kê trên bãi. Làm xong, Vua cắm một cành tre để chim sợ khỏi ăn hạt. Các Mỵ nương và dân đều làm theo.
3.3. Truyền thuyết “Bánh chưng, bánh dày”
Sau khi đánh bại giặc Ân, vua Hùng có ý định truyền ngôi. Nhân dịp đầu Xuân, vua họp các hoàng tử lại, bảo rằng: “Con nào tìm được thức ăn ngon lành để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho”. Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha với hy vọng mình lấy được ngai vàng. Trong khi đó, người con trai thứ 18 tên là Tiết Liêu hay Lang Liêu có tính tình hiền hậu, lối sống đạo hạnh, hiếu thảo với cha mẹ, nhưng vì mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ. Tiết Liêu nằm mộng được một vị Thần mách cho nên lấy gạo nếp làm 2 thứ bánh: bánh dày và bánh chưng. Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Hoàng tử Tiết Liêu trên mâm chỉ có hai tấm bánh chưng và bánh dày. Khi được Hùng Vương hỏi, Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng dạy cách làm, giải thích ý nghĩa của 2 thứ bánh: bánh chưng tượng trưng cho đất còn bánh dày tượng trưng cho trời. Hùng Vương nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Tiết Liêu.
4. Công lao của vua Hùng trong lịch sử
Sự nghiệp dựng nước của các Vua Hùng là sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nước của người Việt cổ. Đây là sự thật được lịch sử được hiển hiện qua hàng trăm di chỉ. Chúng thể hiện qua các đồ đá, đồ đồng, đồ sắt … với những chiếc cuốc đá, rìu sắt, lưỡi cày, liềm hái đồng thau … Đó là những minh chứng chứng minh cho cả một chặng đường dài qua vài thiên niên kỷ trước công nguyên.
Trong những truyền thuyết của người Việt, có nhiều câu chuyện liên quan đến thời đại của các Vua Hùng được truyền lại trong dân gian đến nay như chuyện Vua Hùng kén rể, chuyện nàng công chúa Tiên Dung với Chử Đồng Tử hay sự tích bánh chưng, bánh dày gắn với tích Hùng Vương chọn người truyền ngôi báu…Tất cả đã tạo được dấu ấn sâu sắc trong lòng người Việt.
Vua Hùng lấy nơi đóng đô ở Bạch Hạc, đó là nơi hội tụ của ba con sông cửa ngõ của giao lưu đường thuỷ. Vào mùa xuân hằng năm, trên bến sông diễn lại tích “Thổ lệnh Thạch Khanh”. Từ thời nhà Hùng, sự tích Vua Hùng dạy những người dân cấy lúa được thể hiện lại ở Minh Nông. Đất Dữu Lâu có từ vườn trầu của nhà Vua; đất Hương Trầm gắn liền với tích về cánh đồng. Đây là nơi Lang Liêu trồng lúa thơm để làm bánh chưng, bánh dày…
Trên đây là toàn bộ nội dung về chủ đề Những điều về các vị vua Hùng hay nhất mà Trường Cao Đẳng Kiên Giang muốn gửi đến các độc giả. Ngoài ra, các độc giả có thể tham khảo thêm bài viết về Em hãy kể những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam mà em biết của Trường Cao Đẳng Kiên Giang. Còn bất kỳ vướng mắc nào, quý độc giả vui lòng liên hệ hotline: 1900.6162 hoặc email: [email protected] để được hỗ trợ. Trân trọng./.