Giáo dục

Chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam qua truyện ngắn Làng

đơn vị Trường Cao Đẳng Kiên Giang muốn gửi tới quý khách hàng nội dung liên quan tới chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam qua truyện ngắn Làng qua bài viết sau đây:

1. Giới thiệu về truyện ngắn “Làng”

Kim Lân là một tác giả truyện ngắn xuất sắc, chuyên viết về đời sống nông thôn và con người nông dân. Trong danh mục tác phẩm của ông, có một tác phẩm vượt bậc mang tên “Làng”. “Làng” được sáng tác vào năm 1948, trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhân vật chính trong truyện là ông Hai, người sinh sống tại làng Chợ Dầu. Ông Hai yêu quý và trân trọng quê hương của mình tới mức khi Pháp xâm lược, ông quyết định ở lại làng và tham gia vào cuộc kháng chiến, mặc dù tuổi đã cao. Tuy nhiên, do hoàn cảnh gia đình, ông buộc phải rời làng và sống tạm thời ở thị trấn Hiệp Hòa. Một ngày nọ, ông nghe tin làng Chợ Dầu đã khuất phục trước giặc, điều này gây cho ông một cảm giác khổ đau không tả được. Nhưng khi tin tức được cải chính và làng Chợ Dầu thực sự vẫn kiên cường chống lại giặc, ông tràn đầy niềm vui và tự hào tới mức đi khoe rằng cả nhà ông đã bị đốt sạch nhưng trong lòng ông tự hào không tả được.

Truyện ngắn “Làng”, sáng tác bởi Kim Lân vào năm 1948, đặt trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi chính quyền tuyên bố “hãy tản cư” và những người dân từ vùng tam chiến vận chuyển lên vùng chiến khu để tham gia cuộc kháng chiến dài tương đối. Truyện ngợi ca tình yêu sâu sắc đối với quê hương, lòng yêu nước và qua nhân vật chính ông Hai, nó truyền tải một cách trung thực, sâu sắc và xúc động về ý thức kháng chiến của người nông dân buộc phải rời làng và tản cư. “Làng” xoay quanh ông Hai, một người nông dân lao động siêng năng, sâu sắc yêu thương làng quê của mình. Vì cuộc kháng chiến chống Pháp, ông phải rời xa làng và sống trong một vùng khác, nhưng ông luôn nhớ và yêu quê hương, luôn theo dõi tin tức về làng mình. Mỗi khi ông đi đâu, ông luôn tự hào và khoe về vẻ đẹp của làng Chợ Dầu và ý thức kháng chiến mạnh mẽ của những người dân làng. Trong khi đang sống trong vùng tản cư, tin tức về thắng lợi của quân đội ta vang lên và tạo niềm vui phổ biến, nhưng ông Hai bỗng dưng nghe được một tin tức đáng lo ngại rằng dân làng Chợ Dầu đã quay lưng và khuất phục trước giặc. Ông cảm thấy tức giận và xấu hổ vô cùng, lòng ông chán nản và nhục nhã. Ông trở nên trầm ngâm, không muốn ra khỏi nhà, luôn cảm thấy u ám và lo sợ, nhất là khi đội chủ nhà đe dọa đuổi ông và gia đình đi, vì ông được cho là người ở làng Việt gian. Mỗi ngày, ông chỉ có thể chia sẻ tâm sự của mình với đứa con trai nhỏ, nhưng thực ra đó cũng là ông đang nói với chính lòng mình: “Hãy theo đường kháng chiến, theo lời chỉ đạo của chủ toạ Hồ Chí Minh, không theo bọn giặc gian ác.

 

2. Dàn ý Chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam qua truyện ngắn Làng

– Mở bài:

Kim Lân, một nhà văn nổi tiếng đã trở thành biểu tượng từ thời kỳ trước cách mệnh Tháng 8 – 1945, với những tác phẩm ngắn mang đậm văn hoá đặc trưng của Kinh Bắc. Ông đã dành trọn tâm hồn cho cuộc sống thôn quê, sớm thông thuộc tâm lý của người nông dân. Trong cuộc kháng chiến, ông khát khao thể hiện ý thức của người nông dân đấu tranh.

Truyện ngắn “Làng” ra đời năm 1948, được xuất bản trên tạp chí Văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc. Tác phẩm này nhanh chóng được xác nhận vì khả năng truyền tải một tình cảm đậm sâu của dân tộc, tình yêu quê hương và quốc gia thông qua nhân vật người nông dân, người mang trong mình bản sắc truyền thống và những thay đổi trong tình cảm trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

– Thân bài:

+ Truyện ngắn “Làng” thể hiện một tình cảm đẹp của toàn dân, tình yêu dành cho quê hương và quốc gia. Với người nông dân thời cách mệnh và kháng chiến, tình yêu đối với làng quê đã hòa quyện với tình yêu đối với quốc gia, ý thức kháng chiến. Tình cảm này vừa mang tính truyền thống vừa có những biến đổi mới.

+ Sự thành công của Kim Lân nằm ở việc ông diễn đạt tình cảm, tâm lý chung đó qua sự sống động và độc đáo của một nhân vật, ông Hai. Trong ông Hai, tình cảm chung đó mang màu sắc riêng, in sâu vào trong cá tính duy nhất của ông.

a. Tình yêu đối với làng quê, một bản sắc truyền thống của ông Hai.

– Ông thường tự hào về làng quê, đó là niềm tự hào sâu sắc về nguồn gốc của ông.

– Làng quê đối với người nông dân mang ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc sống vật chất và ý thức.

b. Sau cách mệnh và gia nhập kháng chiến, tình cảm của ông Hai đã trải qua những chuyển biến mới, phản ánh sự gắn bó sâu sắc giữa ông và quê hương.

– Sau khi được phóng thích bởi cách mệnh, ông tự hào về sự phát triển của phong trào cách mệnh trong quê hương và sự xây dựng của làng kháng chiến. Khi xa làng, ông nhớ mãi không quên những hoạt động như “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…” và lo lắng rằng “cái chòi gác,… những đường hầm bí mật…” đã hoàn thành chưa?

– Ông có tâm lý thích thú theo dõi tin tức về kháng chiến, thích bình luận và hào hứng trước những tin tức về thắng lợi từ khắp nơi. Ông nói rằng “Cứ thế, chỗ này giết mổ một tí, chỗ kia giết mổ một tí, cả súng cũng vậy, ngày hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại, làm gì mà thằng Tây không bước sớm”.

– Tình yêu của ông Hai đối với làng và quốc gia được bộc lộ sâu sắc khi ông nghe tin làng đã bị giặc chiếm. Lúc đó, ông cảm thấy sững sờ và không tin vào điều đó. Nhưng khi người khác kể chi tiết và ông không thể không tin, ông cảm thấy xấu hổ và trở về làng. Nghe lời kể chi tiết, ông đau lòng và cúi gằm mặt xuống mà đi.

Khi ông trở về nhà và nhìn thấy con cái, ông cảm thấy áy náy vì chúng bị người ta khinh thường và áp bức. Ông tức giận với những người ở lại làng, nhưng khi điểm danh từng người, ông không thể tin rằng họ “đổ đốn” như lời đồn. Tuy nhiên, ông không thể tránh khỏi suy nghĩ rằng “không có lửa làm sao có khói” và khởi đầu tin rằng họ đã phản nước hại dân.

c. Gánh nặng tâm lý của ông Hai được giải tỏa, và ông cảm thấy hết sức vui mừng và tự hào về làng chợ Dầu.

– Cách ông trình bày việc Tây đã đốt sạch nhà của mình là một cách hiển thị rõ ý chí “Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước” của một người nông dân lao động thông thường. Việc ông kể chi tiết về trận chống càn ở làng chợ Dầu cho thấy ý thức kháng chiến và niềm tự hào về làng nơi ông sinh sống và tham gia kháng chiến.

– Nhân vật ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ nhờ vào nghệ thuật trình bày tâm lý, tính cách và tiếng nói của nhân vật nông dân dưới ngòi bút của Kim Lân. Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách nội tâm để ông Hai bộc lộ sự sâu sắc của tâm trạng.

– Việc trình bày rất cụ thể và gợi thông cảm qua ý nghĩ, hành vi, tiếng nói hội thoại và độc thoại.

– tiếng nói của ông Hai vừa mang nét chung của một người nông dân, vừa thể hiện rõ cái tôi độc đáo của nhân vật, tạo nên một hình ảnh sinh động và sống động.

– Kết bài

Thông qua nhân vật ông Hai, chúng ta cảm nhận được tình yêu sâu nặng, thực tâm và mộc mạc của người nông dân lao động đối với quê hương và quốc gia. Điều này thể hiện sự cao quý và đặc biệt trong những con người này.

Trong văn học thời kháng chiến chống Pháp, chúng ta thấy sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yêu quốc gia, điều này trở thành một khía cạnh quan trọng trong nhận thức và tình cảm của nhân dân cách mệnh. Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân là một ví dụ đáng quý cho sự thành công trong việc tôn vinh tình yêu quốc gia qua văn học.

 

3. Chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam qua truyện ngắn Làng

“Làng” là một tác phẩm đặc sắc của Kim Lân, được viết trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm này đã thành công trong việc thể hiện hình ảnh của người nông dân cách mệnh, đặc biệt là những thay đổi tình cảm của họ, mà Kim Lân đã trình bày một cách rõ nét qua nhân vật ông Hai.

Ông Hai là một người nông dân đơn thuần, chuyên cần, chất phác và mộc mạc. Tình yêu đối với quê hương là điều không thể thiếu trong cuộc sống của ông. Như nhiều người khác, ông Hai có một làng quê để yêu thương, gắn bó, và làng Chợ Dầu là niềm tự hào và tự hào của ông. Ông thường khoe rằng làng của mình có một thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng lớn nhất vùng, đường làng được lát đá xanh, trời mưa hay trời gió, không bùn dính tới gót chân. Ông còn tự hào về việc làng là “Sinh phần” của viên tổng đốc làng. Tình yêu của ông đối với làng không bị suy giảm mặc dù ông phải rời xa nơi ấy để tản cư. Ông thường nhớ về làng, nhớ những ngày làm việc cùng anh em. Ông luôn theo dõi tình hình chiến sự và vui mừng khi nghe tin quân ta thắng lợi. Tình yêu của ông đối với làng không bị suy giảm mặc dù ông phải rời xa nơi ấy để tản cư. Ông thường nhớ về làng, nhớ những ngày làm việc cùng anh em. Ông luôn theo dõi tình hình chiến sự và vui mừng khi nghe tin quân ta thắng lợi. Tình yêu của ông Hai vẫn gắn liền với tình yêu nước và tình yêu kháng chiến. Để làm vượt bậc hơn sự thay đổi trong tình cảm của người nông dân, Kim Lân đã đặt nhân vật vào một tình huống bất thần và căng thẳng: ông Hai nghe tin làng Chợ Dầu của ông đã theo Tây. Tin tức này khiến ông Hai sững sờ, xấu hổ, và cảm thấy vô vọng. Ông sống trong sự chán nản, lo sợ khi mụ đội chủ nhà muốn đuổi ông đi vì ông là người ở làng Việt gian.

Ông chỉ có thể chia sẻ tâm sự của mình với đứa con trai nhỏ, trong đó thể hiện rằng ông phải theo kháng chiến, theo Cụ Hồ sáng soi, và ông đã quyết định rằng “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Tình cảm tư nhân, tình yêu gia đình, dù lớn lao thế nào, không thể lấn áp tình yêu đối với quốc gia. Điều này là một nét đẹp đặc trưng của người nông dân Việt Nam trong thời kỳ đó. Để xoa dịu nỗi nhớ nhà, ông Hai đã trò chuyện với con trai út và khẳng định lại tình yêu của mình đối với làng quê và lòng trung thành với quốc gia, với chủ toạ Hồ Chí Minh. Trong khi ông Hai đang đắn đo và phân vân, tin tức rằng làng Chợ Dầu không đi theo Tây đã được sửa đổi. Nỗi đau trong lòng ông Hai trong những ngày qua tan biến, và ông tràn đầy niềm vui khi chạy khắp nơi chia sẻ tin tức sửa đổi đó. Ông còn khoe rằng nhà ông đã trốn khỏi ngọn lửa của giặc.

tương tự, tình yêu của ông Hai đối với làng quê và quốc gia đã vượt qua mọi gian lao và biến cố. Ông Hai, từ một người nông dân thông thường, giản dị và yêu làng quê, đã trở thành một công dân yêu nước. Hai tình yêu đó luôn hiện diện và gắn bó trong trái tim của những người nông dân Việt Nam vào thời khắc đó.

đơn vị Trường Cao Đẳng Kiên Giang mong muốn gửi tới quý khách hàng những thông tin tư vấn hữu ích. nếu như quý khách hàng đang gặp phải bất kỳ vấn đề pháp lý nào hoặc có nghi vấn cần được trả lời, hãy liên hệ với Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến qua số hotline 1900.6162. Hoặc quý khách hàng gửi yêu cầu chi tiết qua email: [email protected] để được hỗ trợ và trả lời thắc mắc nhanh chóng. thực tâm cảm ơn quý khách hàng đã hợp tác cùng đơn vị chúng tôi.

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button